1. Hoa Đà – danh y thời Đông Hán
Nhắc đến Hoa Đà, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một danh y tinh thông y thuật nhưng ít ai biết rằng, ông cũng là một võ sư. Hoa Đà là cha đẻ của “Ngũ Cầm Hí” – môn võ thuật sớm nhất ở Trung Quốc. Do vậy, có nhiều người suy tôn ông là người sáng lập võ thuật Trung Hoa.
Người ta vẫn tưởng rằng “Ngũ Cầm Hí” (một bài khí công cổ đại, mô phỏng điệu bộ của năm loài thú là cọp, nai, gấu, khỉ và chim) là để rèn luyện sức khỏe, nhưng giới võ thuật Trung Quốc cổ đại lại coi “Ngũ Cầm Hí” là một phương pháp tu luyện nội công. Võ thuật Trung Quốc rất coi trọng nội công, không có nội công tích lũy thì động tác võ thuật chỉ là màn trình diễn đẹp mắt mà thôi, khỏi phải nói “Ngũ Cầm Hí” chính là khởi nguồn của nội công, đó cũng là công pháp tu nội sớm nhất, không những vậy, dựa trên “Ngũ Cầm Hí” người ta đã phát triển thành rất nhiều môn phái võ thuật khác nhau. Do vậy xem ra việc xếp Hoa Đà vào hàng đầu trong các cao thủ võ lâm cũng không có gì khó hiểu.
Môn võ cổ xưa này được ghi chép lại trong “Hậu hán thư” và “Tam Quốc chí”. Trong sách “Dưỡng sinh diên mệnh lục” thời Nam bắc triều cũng từng nhắc đến “Ngũ Cầm Hí”. Mỗi cầm hí là tập hợp 1 số động tác dựa theo từng hành trong ngũ hành và đặc điểm các cơ quan nội tạng, khí huyết, kinh mạch.

Một cảnh trong phim "Thần y Hoa Đà".
2. Nhạc Phi - danh tướng thời Nam Tống
Nhạc Phi sinh ra ở Hiếu Đễ, thôn Vĩnh Hà, huyện Thang Âm, Tương Châu, Định Phủ Lộ, tỉnh Hà Bắc, năm thứ 2 Sùng Ninh Bắc Tống Huy Tông.
Theo “Thang Âm huyện trí”, khi chưa trưởng thành Nhạc Phi đã có thể nâng được cây cung nặng 150 kg, có thể kéo được chiếc nỏ nặng khoảng 440 kg. Nhạc Phi võ thuật cao cường, không thua kém các sư phụ của mình như danh sư Chu Đồng (bắn cung), Trần Quảng (đao thương và quyền thuật). Chỉ trong thời gian ngắn, Nhạc Phi đã là người giỏi võ nhất huyện.
Nhạc Phi giỏi đánh trận. Dù là tướng quân nhưng ông luôn lĩnh ấn tiên phong, đi đầu hàng ngũ. Từ Bắc vào Nam, Nhạc Phi đã kinh qua không biết bao trận chiến. Trong “Ngũ nhạc từ minh kí” viết: “Ta đến từ phía bắc sông, khởi nghiệp ở Đài Châu, từng tham gia hơn 200 trận chiến”. Có lần, dù được quân lính và các tướng ngăn cản, Nhạc Phi vẫn lao lên một mình truy đuổi địch và hạ sát thành công tướng lĩnh quan trọng của quân Kim. Nhưng đây cũng là trận chiến cuối của ông.
Sau khi trở về từ chiến trường đánh Kim, Nhạc Phi bị gian thần Tần Cối vu vạ, quy tội mưu phản. Ông kết thúc cuộc đời trung quân, ái quốc ở tuổi 39.
Vượt qua nhiều đại cao thủ khác, Nhạc Phi được người đời tôn sùng, gọi là Vũ Thánh. Tài thao lược, cận chiến phi phàm và nhân cách, phẩm giá, lòng yêu nước của tướng quân Nhạc Phi thật sự là một biểu tượng cho tài năng, đức độ của một vị chiến tướng.

Huỳnh Hiểu Minh trong phim "Tinh Trung Nhạc Phi".
3. Trương Tam Phong - người sáng lập phái Võ Đang
Theo ghi nhận của cổ thư Trung Hoa, Trương Tam Phong là một người có dung mạo cổ quái, tóc dài, râu rậm, mặt đỏ, môi thắm, ăn khỏe như cọp, đi nhanh như gió cuốn. Tương truyền, Trương Tam Phong vài ngày, thậm chí vài tuần mới ăn cơm một lần nhưng vẫn ung dung tự tại sống nhờ các bài võ, khí công. Ông thường chu du trên núi, ngả lưng trên mây tuyết “như người ở chốn thần tiên” và có hành tung rất bí ẩn.
Ông từng một mình đánh bại cả một nhóm đạo tặc hơn trăm tên, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương từng cảm kích mời ông vào triều làm quan nhưng ông đã khéo léo từ chối. Những năm Chính Đức (1506 - 1521), Lý Tính Chi thời Minh Vũ vào núi Võ Đang thì bắt gặp Trương Tam Phong, tính đến lúc ấy đã... 250 tuổi.
Ngoài ra, Trương Tam Phong còn sáng tạo ra 1 bộ võ học có tên là Cửu Tiêu Chân Kinh trước khi sáng tạo ra Thái Cực Quyền Và Thái Cực Kiếm. Cửu Tiêu Chân Kinh gồm 9 chương tu luyện nội công, điển tịch võ học này sử dụng cương nhu nhị kình (giống như Thái Cực) để hóa giải các thế đánh của đối phương và phản đòn, sức mạnh được sánh ngang Dịch Cân Kinh.
Ông từng xuất hiện trong 2 bộ truyện “Thần điêu hiệp lữ” và “Ỷ thiên đồ long kí” của Kim Dung và được đánh giá là một trong những đại cao thủ võ lâm trong thế giới võ hiệp Kim Dung.

4. Trương Tùng Khê - sáng lập phái Võ Đang Tùng Khê
Trương Tùng Khê là người huyện Ngân (thuộc Ninh Ba, Triết Giang) thời nhà Minh. Vào những năm Gia Tĩnh ông nổi tiếng ở phủ Ninh Ba nhờ Nội Gia quyền. Trương Tùng Khê – nhân vật trong truyện “Ỷ thiên đồ long ký” của Kim Dung là đệ tử thứ 4 của Trương Tam Phong, là người thứ 4 trong thất hiệp Võ Đang.
Tùng Khê là thượng nghĩa, cẩn trọng, khiêm tốn, không thích mang sở trường ra khoe khoang cho thiên hạ. Nội gia quyền pháp của ông chứa đựng cả nội gia và ngoại gia.
Ngoại gia rất thịnh hành ở Thiếu Lâm, công pháp chủ yếu là đối kháng, giương oai diễu võ, khi ra đòn tấn công thường phải đánh thắng người khác. Nội gia ngược lại rất chậm rãi, khoan thai. Công pháp này tập trung vào chống đỡ đòn, nếu không gặp tình huống nguy cấp thì không ra đòn. Khi ra đòn cũng tránh tiêu diệt đối phương, thế quyền vô cùng đẹp mắt không chê vào đâu được, cho nên công pháp nội gia có tính thiện hơn.

Truyền nhân đời thứ 13 của môn phái Võ Đang Tùng Khê.
5. Thích Kế Quang - danh tướng kháng Nhật nổi tiếng Minh triều
Thích Kế Quang là tác giả của nhiều bộ sách võ thuật, đồng thời cũng là một đại danh tướng, võ thuật gia nổi tiếng Minh triều. Ông sử dụng thành thạo các loại binh khí như côn, đao, thương, xiên, bừa, kiếm, kích, cung, tên, lá chắn nhưng vẫn rất giỏi quyền pháp và cho rằng mọi người học võ cần học quyền pháp cho tay chân nhanh nhẹn, phản xạ linh hoạt - là điều căn bản của võ học. hững binh sĩ được ông huấn luyện có thể “lấy một chọi mười”, được ca ngợi là “đội quân có sức chiến đấu mạnh nhất trong lịch sử Trung Hoa”.
Quyền pháp của ông kết hợp hài hòa giữa đầu, khuỷu tay, đầu gối, hông, cước pháp kiêm dụng một chân. Những đòn như quật, đánh, quẳng, cầm, đá đều được áp dụng nhuần nhuyễn, tạo thành phong cách đặc biệt của “Thích gia quyền”. Nhưng ông vẫn chưa dừng lại ở đó mà còn đặc biệt nghiên cứu bắn súng và côn pháp. Thương pháp của ông được kế thừa từ tổ truyền, khi đó cũng vô cùng nổi tiếng.
Ông không chỉ tinh thông võ thuật Trung Hoa mà còn có tinh thần tiếp thu võ thuật nước ngoài. Kế Quang từng kết hợp tinh hoa của kiếm pháp Nhật Bản và Trung Quốc, cải chế trường đao của Nhật Bản thành vũ khí cho quân đội Trung Hoa dùng. Không chỉ tiếp thu và phát triển đao pháp, ông còn chế tạo ra “trúc xoa” (một cây trạc dài) chuyên để phá trường đao của quân Nhật. Sau này, quân đội của Thích Kế Khang dùng loại vũ khí trên mà liên tiếp đại thắng quân Oa.

Triệu Văn Trác trong vai Thích Kế Quang.
6. Cam Phượng Trì - cao thủ võ lâm thời nhà Thanh
Cam Phượng Trì (người Nam Kinh, Giang Tô) là cao thủ võ thuật nổi tiếng thời nhà Thanh. Là trẻ mồ côi từ bé, thưở nhỏ Cam Phượng Trì rất ham luyện võ công và thích kết giao với người trong giang hồ, nức tiếng một vùng. Tương truyền ông có sức khỏe hơn người, có thể nâng 1 con trâu.
Khi đó thành Dư Diêu, Chiết Giang có một võ sư nội gia quyền là Hoàng Bách Gia, ông là con trai của nhà tư tưởng và sử học nổi tiếng Hoàng Tông Hi. Nghe tin có tiểu anh hùng Cam Phượng Trì đến vùng thì tìm gặp và nhận làm đồ đệ sau khi kiểm tra vài đường quyền. Chỉ sau 3 năm kiên trì tập luyện, Cam Phượng Trì đã lĩnh hội gần hết toàn bộ võ công của sư phụ. Nghe lời Hoàng lão sư phụ, Cam Phương Trì trở thành người thầy nhân nghĩa, làm rất nhiều việc cứu nhân độ thế.
Sau này ông còn theo học Nhất Niệm hòa thượng học quyền pháp Thiếu lâm, bắt đầu đi khắp nơi hành hiệp, trượng nghĩa. Giới giang hồ xưng tụng ông là “Giang Nam Đại hiệp”. Nhân vật nghĩa sĩ Phượng lão gia trong “Nho lâm ngoại sử” của Ngô Kính Tử lấy nguyên mẫu từ chính ông.
Cam Phương Trì là người có tư tưởng “Phản Thanh phục Minh”. Tương truyền, ông từng giúp Lữ Tứ Nương vào cung vua, ám sát Ung Chính nhưng câu chuyện này đến nay vẫn là bí ẩn lịch sử.
7. Đổng Hải Xuyên – người sáng lập Bát quái chưởng
Đổng Hải Xuyên sinh năm Gia Khánh nhà Thanh (1797-1882), người Mễ Gia huyện Văn An tỉnh Hà Bắc . Một lần tình cờ, Đổng Hải Xuyên gặp Vân Bàn lão tổ và theo học võ công nhiều năm trời. Khi chào từ biệt đồ đệ Hải Xuyên, sư phụ Vân Bàn còn tặng ông 2 chiếc chùy và dặn” “Võ nghệ của con đã thuộc hàng cao thủ nhưng chưởng pháp vẫn cần phải hoàn thiện và phát triển”.
Nghe lời sư phụ, Hải Xuyên ra sức luyện võ, nghiền ngẫm và phát triển “Bát quái chưởng” lên mức thượng thừa. Chưởng pháp lợi hại này đã được truyền qua nhiều thế hệ đến tận ngày nay.
Đổng Hải Xuyên sống rất thọ, khi sắp lìa đời vẫn nằm trên giường tay múa quyền pháp đầy uy lực rồi mới trút hơi thở cuối cùng.

Nhân vật Đổng Hải Xuyên trong phim “ Bát Quái Tông Sư”.
8. Đại Đao Vương Ngũ - cao thủ phản đế ái quốc
Vương Ngũ tên thật là Vương Chính Nghị, tự là Tử Bân, nguyên quán Thương Châu, Hà Bắc, người dân tộc Hồi. Vương Ngũ đao pháp điêu luyện, cốt cách phi phàm nên được người đời tôn kính gọi là “Đại đao Vương Ngũ”. Ông còn là một trong trong thập đại cao thủ cuối thời Thanh được dân gian lưu truyền rộng rãi cùng với các tên tuổi như Yên Lý Tam, Hoắc Nguyên Giáp, Hoàng Phi Hồng.
Thuở thiếu niên, Vương Ngũ vì muốn bái Lý Phương Cương làm thầy mà đã quỳ ngày đêm trước cửa nhà Lý sư phụ, mong được làm đồ đệ. Trước tấm lòng hiếu học võ nghệ của Vương Ngũ, Lý Phượng Cương đã truyền dạy võ công cho ông. Chỉ mấy năm sau, võ công của Đại Đao Vương Ngũ đã ngang ngửa sư phụ.
Sinh thời, Vương Ngũ một đời hành hiệp trượng nghĩa, ủng hộ các phong trào yêu nước và là một trang anh hùng hào kiệt ưu tú của Trung Hoa.
Năm 1900, phong trào vận động phản đế ái quốc của Nghĩa Hòa Đoàn nhen nhóm ở phía Bắc. Vương Ngũ và thuộc hạ cùng kề vai sát cánh với quân của Nghĩa Hòa Đoàn tấn công người Tây. Nghĩa Hòa Đoàn hoạt động một thời gian thì suy yếu, Vương Ngũ về Bắc Kinh. Nhưng ông đã bị mật báo dò ra nơi ở và vây bắt. Vì không muốn liên lụy bạn bè, Vương Ngũ nhận mọi trách nhiệm và cuối cùng bị quân Đức tử hình, rồi bêu đầu ở tuổi 56.
Hoắc Nguyên Giáp ở Thiên Tân nghe tin vội đến lẻn hạ đầu của Vương Ngũ xuống, mang đi mai táng trong lòng thương tiếc vô hạn.

Một cảnh trong phim "Đại đao Vương Ngũ".
9. Hoàng Phi Hồng - Quảng Châu sư vương
Hoàng Phi Hồng là con trai của Hoàng Kỳ Anh, một cao thủ trong “thập hổ Quảng Đông”. Từ năm lên 6, Phi Hồng đã theo cha học võ và mãi võ kiếm tiền, lĩnh hội đầy đủ công phu gia truyền. Sau đó được Lâm Phúc Thành, Tống Huy Thang truyền thụ cho thiết tuyến quyền, tuyệt chiêu phi đà, vô hình cước, võ nghệ ngày càng cao cường. Sau khi Hoàng Kỳ Anh qua đời, Hoàng Phi Hồng nối nghiệp của cha trở thành một võ sư trẻ nhất phương Nam bấy giờ.
Tương truyền rằng, ông sở hữu nhiều tuyệt kĩ như Song phi đà, Tứ mẫu đao, La Hán bào, Vô ảnh cước, Thiết tuyến quyền, Đan song hổ trảo, Công tự phục hổ quyền, La Hán kim tiễn phiêu, Tứ tượng tiêu long côn và Giao da đại bá đẳng. Nhờ công phu tuyệt đỉnh, ông được biết tới với danh hiệu “Hổ cuồng”, “Quảng Châu sư vương”.
Sở hữu võ nghệ cao cường, Phi Hồng càng tôn trọng “võ đức”. Ông thường quan niệm tập võ phải “lấy đức làm đầu”, dùng đức thu phục lòng người, càng không được ỷ mạnh hiếp yếu. Bên cạnh đó, Hoàng Phi Hồng còn đi đầu trong việc bài trừ quan niệm trọng nam khinh nữ. Ông từng thu nhận rất nhiều đệ tử nữ, còn lập nên một đội nữ võ sư.
Cả đời phát huy sức mạnh của võ thuật quốc túy, lại hành hiệp trượng nghĩa, Phi Hồng không những để lại tiếng thơm muôn đời đối với hậu thế, mà còn trở thành võ thuật gia nổi tiếng trong và ngoài nước.

10. Hoắc Nguyên Giáp - sáng lập Tinh Võ Môn
Hoắc Nguyên Giáp (18/1/1868 – 14/9/1910), tự là Tuấn Khanh, nguyên quán ở An Lạc Đồn, Đông Quang, tỉnh Hà Bắc (thuộc Thương Châu), người Hán. Ông được biết tới với danh hiệp “võ thuật gia yêu nước”, đồng thời còn là người sáng lập Tinh Võ Thể dục hội ( được biết tới với tên khác là Tinh Võ môn - một tổ chức võ thuật nhằm hệ thống hóa và phổ biến rộng rãi võ thuật truyền thống Trung Quốc).
Hoắc Nguyên Giáp nổi tiếng với võ nghệ cao cường và tinh thần dân tộc. Năm 1901, Hoắc Nguyên Giáp đã ra khiêu chiến với một võ sĩ người Nga sau khi tên võ sĩ này coi thường võ thuật Trung Hoa, đăng biển rêu rao không có địch thủ và lăng mạ người Trung Quốc là “Đông Á bệnh phu”. Thông qua người phiên dịch, võ sĩ người Nga được nghe danh tiếng lẫy lừng của Hoắc đại hiệp nên từ chối tỉ thí, chấp nhận đính chính, xin lỗi trên các mặt báo.
Tháng 9/1910, Hội Judo Nhật mang 10 đại cao thủ sang tỉ thí với Hoắc Nguyên Giáp tại “Trung Quốc tinh võ thể thao hội”. Hoắc Nguyên Giáp anh dũng vô song, đánh bại hết các cao thủ xứ Phù Tang. Sau trận đấu, người Nhật tổ chức tiệc rượu mời Hoắc võ sư. Không ngờ, Hoắc Nguyên Giáp đã bị ai đó lẻn đầu độc, ho khạc tại bàn và tử vong vài ngày sau đó, hưởng dương 42 tuổi.
Sau khi Hoắc Nguyên Giáp qua đời, các đệ tử của Tinh võ môn và các nhân sĩ võ thuật đã long trọng tổ chức lễ tưởng niệm rồi mới mai táng ông. Năm 2009, Chính quyền thành phố Thiên Tân đã đổi tên thị trấn Hà Nam quê ông thành thị trấn Tinh Võ để tưởng nhớ vị võ sư ái quốc nổi tiếng trong và ngoài nước này. Tinh Võ môn Thượng Hải sau đó do em trai Hoắc Nguyên Giáp đảm nhiệm. Chưa tới 10 năm sau, hội đã có 43 phân hội trong nước, số hội viên lên tới hơn 40 vạn người.

Trịnh Y Kiện (giữa) vào vai Hoắc Nguyên Giáp trong bộ phim cùng tên.
Võ thuật là một trong những tinh hoa văn hóa của Trung Quốc. Trải qua hàng ngàn năm phát triển đã phát sinh những đại cao thủ võ thuật với võ nghệ siêu phàm. Những cao thủ này đều được ca ngợi là anh hùng trượng nghĩa, cứu nhân độ thế nhưng một vài người lại bị hãm hại và qua đời sớm. Bạn ngưỡng mộ ai trong giới cao thủ võ lâm này?